Hệ thống hóa và phân loại Phân_họ_Vịt

Nhóm vịt mò, với sự phân bố toàn cầu, được xác định giới hạn theo nghiên cứu năm 1986[3] bao gồm 8 chi và khoảng 50-60 loài còn sinh tồn. Tuy nhiên, mòng két Salvadori gần như chắc chắn là có quan hệ gần gũi với vịt tai hồng, còn các chi khác có lẽ với sự xác định vị trí chưa được giải quyết trọn vẹn[2][4]. Loài vịt cẩm thạch kỳ dị, trước đây được gán một cách không chắc chắn vào nhóm vịt mò, thực ra có lẽ chính xác hơn là thuộc về nhóm vịt lặn hay thậm chí là một phân họ khác biệt[2].

Nhóm vịt này được đặt tên như vậy là do các thành viên của nó tìm kiếm các loại thức ăn thực vật chủ yếu bằng cách lật úp trên mặt nước hay trên thảm cỏ và ít khi lặn. Chúng chủ yếu sống thành bầy đàn trong các môi trường nước ngọt, tới tận vùng cửa sông. Chúng bay khỏe và các loài ở phía bắc đa phần là những loài chim di trú. So sánh với các kiểu vịt khác, chân của chúng ở phía trước của cơ thể nhiều hơn, gần về phía giữa của cơ thể. Chúng đi lại tốt trên mặt đất và một số loài chỉ kiếm ăn trên mặt đất.

Các loài vịt mò này nói chung kiếm ăn trên mặt nước hay trên các đáy bùn đất rất nông. Chúng không được trang bị để lặn sâu xuống vài mét như các loài vịt lặn thật sự. Khác biệt cơ bản nhất giữa vịt mò và vịt lặn là kích thước chân. Chân của vịt mò nói chung nhỏ hơn do chúng không cần lực đẩy bổ sung để lặn nhằm tìm kiếm thức ăn.

Đặc trưng phân biệt khác của nhóm vịt mò khi so sánh với vịt lặn là cách thức chúng bay lên khi bị làm cho hoảng sợ hoặc khi chuyển động. Vịt mò có thể bay ngay lập tức từ mặt nước mà không cần đà (động lượng) còn vịt lặn cần phải thu được động lượng (có đà) để cất cánh, vì thế chúng phải bơi một khoảng ngắn trên mặt nước để có thể bay lên.

Lịch sử phân loại

Theo truyền thống, phần lớn các loài vịt được gán vào một trong các nhóm như nhóm vịt khoang, vịt đậu cây, vịt mò hay vịt lặn; hai nhóm cuối cùng này coi như là tạo ra phân họ Anatinae. Tuy nhiên, nhóm vịt đậu cây hóa ra là tổ hợp cận ngành chứa nhiều loài thủy điểu vùng nhiệt đới đơn giản là đã tiến hóa để có khả năng đậu tốt trong các môi trường sống miền rừng của chúng. Một vài loài trong nhóm này, chẳng hạn như vịt Brasil, sau này đã được gán vào phân họ Anatinae.

Đối với các loài vịt lặn, các dữ liệu chuỗi mtDNA cytochrome bNADH dehydrogenaza[2] chỉ ra rằng chúng là tương đối xa đối với các loài vịt mò và sự tương tự hình thái[3] chỉ là do tiến hóa hội tụ.

Ngoài ra, chi Anas theo định nghĩa truyền thống là không đơn ngành; một vài loài Nam Mỹ thuộc về nhánh khác biệt, có thể bao gồm cả vịt guồng của chi Tachyeres[2], còn các loài khác như mòng két Baikal nên được coi là khác biệt. Xem thêm bài cụ thể về các chi này để có thêm thông tin.